Giống táo Orlik
Giống Orlik được lai tạo tại trạm thí nghiệm quả và quả vùng Orlovskaya vào năm 1959 bằng cách lai các cây táo giống Mekintosh (Mackintosh) và Bessemyanka Michurinskaya. Tác giả của nó là các nhà lai tạo trong nước Sedov E.N. và Trofimova T.A. Khoảng 10 năm đã được dành để cải thiện giống này, kết quả là các chỉ số về khả năng chống chịu sương giá và khả năng đậu quả đã tăng lên đáng kể. Năm 1968, cây giống được phân bổ cho những người ưu tú, và vào năm 1970 Orlik được nhận vào cuộc kiểm tra của Nhà nước. Từ năm 1986, giống đã được phân vùng ở miền Trung, miền Trung đất đen và cả ở vùng Tây Bắc. Giống táo mới nhanh chóng trở nên phổ biến không chỉ trong các trang trại tư nhân, mà còn trong các doanh nghiệp công nghiệp. Chìa khóa thành công này là kích thước cây táo nhỏ gọn và năng suất cao.
Cây táo Orlik thuộc giống cây vào thời kỳ mùa đông quả chín. Cây phát triển có kích thước nhỏ đến trung bình, tán tròn và nhỏ gọn. Các cành chính nằm ở góc vuông với thân cây, đầu của chúng hơi hướng lên trên. Vỏ trên thân và cành chính nhẵn, khi sờ vào có màu hơi vàng. Chủ yếu là những chiếc nhẫn đơn giản và phức tạp đều đơm hoa kết trái.
Chồi thẳng, dày, màu nâu, độ dậy thì cao. Búp vừa phải, hình nón, ấn mạnh vào chồi, tuổi dậy thì. Lá màu xanh lục đậm, khá to, hình bầu dục, nhăn nheo, có gân rõ rệt, dày đặc trên các chồi. Do quá trình dậy thì mạnh mẽ, lá có màu hơi xám. Các mép của phiến lá thô và thô. Phiến lá hơi cong theo gân chính giữa, mặt trên gần như phẳng. Đầu lá nhọn và hơi cong. Cuống lá dày lên, có màu dậy thì ở gốc, có thể dài ngắn hoặc trung bình. Các nốt nhỏ, hình mũi mác, hoặc thậm chí không có. Các lóng khá ngắn với điều kiện có đủ ánh sáng. Vào mùa xuân, cây táo Orlik thu hút sự chú ý do ra hoa đẹp và nhiều: nụ có màu hồng tươi, và những bông hoa đã nở có màu hồng nhạt. Kích thước hoa lớn, cánh hoa khép, đầu nhụy nằm phía dưới bao phấn.
Theo quy luật, táo Orlik có kích thước trung bình, trọng lượng một quả khoảng 100 gram, nhưng có thể lên tới 200 gram. Quả táo tròn, hơi hình nón, hơi dẹt. Các thùy lớn được biểu hiện kém. Da bóng, nhờn, phủ một lớp sáp trắng đặc trưng. Màu sắc chính của quả khi hái là màu vàng xanh, sau thời gian bảo quản ngắn sẽ chuyển sang màu vàng nhạt. Trên toàn bộ bề mặt của quả táo, một màu tím đậm nhạt chuyển qua dưới dạng một vết đỏ dày, mờ và các sọc hợp nhất. Đôi khi người ta tìm thấy những quả hoàn toàn màu đỏ. Trên vỏ quả táo, chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy nhiều chấm nhỏ dưới da, có màu hơi xám. Cấu trúc của quả là hạt mịn, khá đặc. Cuống dày, ngắn, có một đám phồng rõ rệt ở điểm bám của thai. Táo có hình đĩa nông, hơi gấp lại, có chiều rộng vừa phải và có một chiếc cốc kín hoặc nửa hở. Phễu nông, nổi, thực tế không có vết bẩn. Trái tim có kích thước vừa phải, hình trái tim. Hạt màu nâu sẫm, hình trứng, tốt. Các buồng hạt đóng kín.
Thịt quả có màu kem và hơi ngả xanh. Táo Orlik rất mọng nước, có vị chua ngọt hài hòa (vị hơi chua) và mùi thơm nồng dễ chịu.Đánh giá độ ngon của quả trên thang điểm nếm là 4,4 - 4,6 điểm. Về thành phần hóa học, táo Orlik chứa: đường (11%), axit chuẩn độ (0,36%), chất pectin (12,7%), axit ascorbic (8,9 mg / 100 g), hoạt chất P (167 mg / 100 g) ).
Quả chín vào nửa cuối tháng 9, bảo quản đúng cách thì thời gian tiêu thụ có thể kéo dài đến cuối tháng 2 - đầu tháng 3. Giống Orlik được phân biệt bởi sự trưởng thành sớm và năng suất cao. Trên một gốc ghép cỡ trung bình, sau khi trồng từ 4 đến 5 năm thì bắt đầu ra quả. Năng suất tăng nhanh theo từng năm tiếp theo: từ 15 - 35kg quả chín trên cây 7 - 8 năm tuổi, từ 55 - 80kg quả trên cây 10 - 13 tuổi và từ 80 - 120kg. trên cây 15 - 20 năm tuổi.
Độ cứng mùa đông của giống Orlik cao, nhưng trong những trường hợp sương giá nghiêm trọng, bạn nên bọc các thân cây lại. Thiệt hại vảy ở mức trung bình.
Cây táo Orlik lý tưởng cho các mảnh vườn nhỏ - các cây con được trồng cách nhau 2 mét.
Do đặc tính tráng miệng tuyệt vời của táo, cũng như khả năng bảo quản lâu dài và khả năng vận chuyển cao, loại quả này được sử dụng để làm dinh dưỡng trong các trường mẫu giáo và sản xuất nước trái cây.
Trong số những bất lợi chính là tần suất đậu quả và rụng một phần của táo trước mùa thu hoạch.